posted Oct 11, 2012, 12:39 PM by Andy Nguyen
CÂU CHUYỆN VỀ ĐƯỜNG XE LỬA ĐÀLẠT
Vũ Lâm - Viết cho Đặc San ĐàLạt
2009 - Hội Cựu SVSQ - Trường Võ Bị Quốc Gia VN - San Diego phát hành
Tôi sinh ra ở miền Bắc Việt Nam, sống ở Ninh Bình, Hà
Nội, Hải Phòng. Di cư vào Nam, suốt thời niên thiếu, đi học, lớn lên ở Sài Gòn,
chỉ có những tháng Hè hoặc Tết, tôi mới được lên Đà Lạt sống với cô và các em
con của cô tôi. Vậy mà tôi vẫn có cảm tưởng tôi là cư dân Đà Lạt, có lẽ vì kỷ
niệm và tình yêu sâu đậm nhất của đời tôi gắn liền với Đà Lạt, cộng thêm những
kỷ niệm của 4 năm thụ huấn tại quân trường Võ Bị.
Tuổi ngoài 60, tuổi già, hiện tại và tương lai là con đường bằng phẳng!
Nên người ta thường ngoái cổ lại nhìn về quá khứ, sống với quá khứ. Như con bò
buổi chiều về nằm nhai lại mớ cỏ nuốt vội vàng lúc ban ngày. Hình ảnh và hương
vị của Đà Lạt vẫn còn đậm nét trong tôi, nên những buổi chiều buồn, những ngày
mưa bão, tôi vẫn thường ngồi lặng lẽ một mình bên cửa sổ, trong một góc của căn
phòng, trầm ngâm, mơ màng nhớ về những ngày tháng ở Đà Lạt. Đà Lạt những buổi
sáng sương phủ trắng dưới thung lũng. Đà Lạt buổi chiều, buổi tối mù sương. Đà
Lạt mây mù phủ trên rừng thông, đồi núi, mờ mịt đỉnh Lang Biang. Đà Lạt những
ngày mưa bão lê thê, giá lạnh, ẩm ướt! Đà Lạt và người tình, Đà Lạt và nỗi buồn
gậm nhấm hồn tôi suốt một đời.
Tôi nhớ con dốc từ khu chợ Hòa Bình dẫn xuống Hồ Xuân Hương, nhớ con đường
ven hồ và đồi Cù, xa xa phía cuối hồ, ngọn tháp nhọn trường Lycée Yersin vươn
cao in trên nền trời. Tôi nhớ bước chân lững thững trên những bậc thềm Palace,
nhớ con đường dốc ven đồi phủ đầy lá thông khô và những hàng thông cao vút. Đà
Lạt có một mùi thơm huyền hoặc suốt đời khó quên, mùi ẩm ướt của núi đồi, mùi
rừng thông, nhựa thông, mùi ngo, mùi hoa Mimosa. Thời gian tôi sống ở Đà Lạt ít
hơn ở Sài Gòn, nhưng Đà Lạt đã gói gọn những cảm xúc, rung động của đời tôi từ
ngày bé, những ngày còn chạy nhảy, vui đùa, đá bóng với đám bạn nhỏ trong khu
rừng thông bên trường Petite Lycée, băng rừng từ sau căn nhà ở đường Pasteur tìm
đường ra thác Camly. Cho đến những ngày vừa đủ lớn để biết buồn, biết cất dấu
hình người yêu trong ví lâu lâu lấy ra ngắm nhìn, biết ngồi Cà phê Tùng. Nên,
một phần của lý do tại sao sau ngày xong tú tài phần hai, tôi không chọn làm
giáo sư, luật sư, kỹ sư, bác sĩ, tôi cũng không chọn quân trường Hải Quân, Không
Quân mà chọn trường Võ Bị Đà Lạt, nơi mà khi bước chân vào đã mường tượng đến
một tương lai vô định, may rủi, chưa biết sẽ về đâu, một là xanh cỏ hai là đỏ
ngực!.
Hôm nay, nhìn những tấm ảnh “Đà Lạt ngày nay”, đọc hàng trăm những bài viết
về Đà Lạt, trên những trang Web, trên sách báo, tôi thấy nặng trĩu buồn, buồn
bởi vì tôi thấy tôi mất mát quá nhiều, tôi mất một phần của đời tôi, mất Đà Lạt
mất tình yêu!!!
Đà Lạt ngày xưa có nét đẹp thiên nhiên, trong lành, thác
nước, hồ nước trong xanh, im vắng bên rừng thông, đồi núi ngút ngàn, Đà Lạt ngày
nay, Đà Lạt nhân tạo, xanh xanh đỏ đỏ với những kiến trúc rẻ tiền của đám lãnh
đạo có trình độ thấp kém, vô học, trong chế độ cộng sản. Kiểu kiến tạo giả dối,
tiểu công nghệ, ăn xổi ở thì, chỉ mong mau tay móc túi du khách, kiểu xin tiền
lẻ, moi bạc cắc. Đà Lạt ngày xưa như người con gái đẹp thơ ngây, hồn nhiên, mộc
mạc không son phấn, Đà Lạt ngày nay như cô gái ăn sương, đứng chờ khách trong
đêm tối, lòe loẹt phấn son!
Để nhớ thương Đà Lạt của những ngày xa xưa,
tôi phỏng dịch tặng các bạn một đoạn trong “Tracing the forgotten path to the
lost Shangri-La” nói về lịch sử con đường “Xe Lửa Răng Cưa Lâm Viên” chạy từ
Phan Rang lên Đà Lạt, nay không còn nữa. Và, nói về cái ngu xuẩn của những người
lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam cùng với sự phá hoại, tàn phá đất nước của họ.
Đa số người ta biết đến Đà Lạt có một nhà ga xe lửa Đà Lạt đẹp vào bậc nhất
Đông Nam Á, đặc sắc với kiến trúc và xây cất theo kiểu Art-Deco, một kiểu kiến
trúc được ưa chuộng và thịnh hành ở Âu Châu và cả thế giới vào đầu thế kỷ thứ 20
từ 1925 đến 1939. Nhưng không mấy ai chú ý đến một điều, đường xe lửa lên Đà Lạt
là một đường xe lửa răng cưa (cog railroad), độc đáo và hiếm có trên thế giới.
Bạn sẽ ngạc nhiên và kỳ thú khi nói đến đường xe lửa răng cưa! Đúng vậy, hệ
thống đường rầy xe lửa loại này có thêm một đường rầy ở chính giữa có răng móc
như lưỡi cưa, ăn khớp với bánh xe của đầu tầu kéo cũng có răng, được chế tạo đặc
biệt không có ở các đầu tàu xe lửa loại thường, để kéo đoàn tàu lên dốc và để
giữ cho đoàn tàu không bị tuột nhanh khi xuống dốc. Chúng ta hãy khảo sát qua để
biết công trình khó khăn và làm thế nào để người Pháp đã thiết lập được hệ thống
đường xe lửa lên Đà Lạt vào đầu thế kỷ thứ 20.
Năm 1903, người Pháp bắt đầu kiến tạo đường xe lửa nối liền thành phố Đà Lạt
mát mẻ trên cao nguyên và thành phố Phan Rang nóng nực nằm ven duyên hải với mục
đích tạo điều kiện giao thông thuận tiện cho các kiều dân Pháp lên sinh sống,
làm việc hoặc nghỉ ngơi trên thành phố Đà Lạt có khí hậu ôn hòa, mát mẻ quanh
năm. Đoạn đường xe lửa Đà Lạt-Tháp Chàm chỉ có 84 cây số. 41 cây số từ Tháp Chàm
đến Sông Pha (Krong Pha) được hoàn tất và xử dụng từ năm 1919 còn 43 cây số từ
Sông Pha lên Đà Lạt phải mãi đến năm 1932, 13 năm sau mới hoàn tất và xử dụng
được, 43 cây số cuối cùng này là núi đồi dốc, 3 nơi phải làm hệ thống đường rày
có móc răng cưa và 5 chỗ phải làm đường hầm xuyên qua núi. Tổng cộng công trình
kiến tạo là 30 năm để hoàn tất 84 cây số đường xe lửa Phan Rang-Đà Lạt.
Tiến trình kiến tạo đường xe lửa Tháp Chàm-Đà Lạt:
Khởi đầu từ
1893 đến 1913:
- Từ Tháp Chàm (Tourcham) đến Tân Kỳ, 41 Km, hoàn tất và
xử dụng năm 1913.
- 1919 hoàn tất từ Tân Mỹ đến Sông Pha (Krongpha)
- 1928 - - - từ Sông Pha đến Eo Gió (Bellevue)
- 1929 - - - từ
Eo Gió đến Đơn Dương (Dran)
- 1930 - từ Đơn Dương đến Trạm Hành (Arbre
Broye)
- 1933 - - - - từ Trạm Hành đến Đà Lạt
tổng cộng 84 Km từ
Tháp Chàm (tourcham) đến Đà Lạt.
Năm 1932, hai kiến trúc sư người Pháp, ông Moncet và Reveron thiết lập đồ án
nhà ga xe lửa Đà Lạt và thuê một công ty Việt Nam để xây cất cách Hồ Xuân Hương
khoảng 2 Km. Nhà ga được thiết kế đặc biệt theo kiểu Tây phương cộng thêm một
vài điểm đặc thù của vùng cao nguyên, phòng hành khách chính giữa mái cao và
dốc. Nhà ga được chia làm ba gian nhà, mỗi gian đều rộng lớn với những cửa kính
mầu và trần hình vòm cung.
Sau khi đường Hỏa Xa Lâm Viên với đường xe
lửa có răng cưa (Cog railway) hoàn tất. Công ty Hỏa Xa “Chemin De Fer” (CFI) của
Pháp nhập cảng đầu máy xe lửa chạy được trên đường xe lửa răng cưa vào Việt Nam
làm hai đợt.
- Đợt đầu 7 đầu máy. 5 đầu tầu kiểu HG 4/4 của công ty Thụy
sĩ SLM Winterthurand (Schweizerische Lokomotiv- und Maschinenfabrik Esslingen)
và 2 đầu tầu cũng kiểu HG 4/4 do Công Ty của Đức (German MFE - Maschinenfabrik
Esslingen) sản xuất.
- Đợt hai, giữa năm 1930 - 1947 công ty CFI mua
được 6 đầu máy cũ (used locomotives) của công ty Swiss FO (Furka-Oberwald), 2
loại HG 4/4 (serial number CFI 40-308 và 40-309) năm 1930 và 4 kiểu HG 3/4
(serial number CFI 31-201 đến 31-204 ) năm 1947.
Trong thời gian Nhật chiếm đóng Đông Dương, công ty CFI bị lấy mất 3 đầu tầu
HG 4/4 không giấy tờ. Số đầu máy còn lại sau này khi người Pháp rút lui khỏi
Việt Nam được chuyển giao cho Hỏa Xa Việt Nam. Số hiệu (serial number) của các
đầu máy vẫn giữ nguyên, chỉ thay đổi 3 chữ đầu là VHX (hỏa xa Việt Nam) thay vì
CFI (Chemin De Fer).
Với kỹ thuật cổ xưa, đầu máy kéo chạy bằng hơi
nước, nấu bằng than, có công xuất từ 600 đến 820 Mã Lực (CV - Chevaux Vapeur).
Vì Việt Cộng liên tiếp phá hoại và đặt mìn nên cố gắng lắm hỏa xa Việt Nam mới
duy trì được những chuyến xe lửa chạy trên tuyến đường Đà Lạt-Phan Rang cho đến
năm 1968, sau đó đành phải ngưng hoạt động.
Phải mất đến một khoảng thời
gian dài 30 năm, với nỗ lực cố gắng lớn lao của người Pháp trong thời kỳ Đông
Dương mới kiến tạo được một tuyến đường xe lửa có răng cưa kỳ diệu này
(extraordinary cog railway). Chỉ một năm sau ngày cộng sản chiếm miền Nam, năm
1976, Cộng Sản đã tuyên truyền cong queo láo lếu về lịch sử con đường xe lửa Lâm
Viên (Langbian railway) và đổ tội cho người khác đã phá hủy con đường sắt lịch
sử này. Chúng ta hãy đọc những bài viết lếu láo của Việt Cộng dưới đây:
“Đà Lạt được tạo dựng năm 1907 . . . .
Nhà ga Sông Pha và cây cầu
sắt đen gần đó là dấu vết, tàn tích sự hiện diện của người Pháp tại Việt Nam.
Người Pháp dự định kiến tạo một đường hỏa xa từ Đà Lạt đến thành phố
duyên hải Phan Rang. Con đường xe lửa này phải vượt qua những giải núi, những
đèo đẹp nhất ở Việt Nam, Đèo Dran và Đèo Sông Pha mà người Pháp gọi là Đèo
Bellevue. Đường xe lửa Sông Pha là một trong hai đường xe lửa răng cưa (Cog
railway) duy nhất trên thế giới nhưng đã không được hoàn tất sau khi người Pháp
rút lui (Was unfinish after the French withdrawal).
Mặc dù, vẫn còn có
thể tìm thấy bên cạnh đường ..... rất nhiều dấu tích về con đường sắt ấy.
(nguồn Thanhnien Online - March 31,2008).
Và Việt Cộng đổ tội cho Đế
Quốc Mỹ đã phá hoại con đường xe lửa răng cưa Đà Lạt trong chiến tranh:
“ ... Ngay sau khi nhà ga xe lửa Đà Lạt được xử dụng năm 1936, những
chuyến xe lửa với đầu máy kéo mới toanh của Nhật chuyên chở hành khách và hàng
hóa chạy trên ba tuyến đường: Tháp Chàm - Đà Lạt, Nha Trang - Tháp Chàm - Đà
Lạt, và Saigon (nay là thành phố ****) - Tháp Chàm - Đà Lạt. Nhà ga Đà Lạt có ba
đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước được đốt bằng củi, đun sôi 12 thước khối nước,
hơi nước tạo sức kéo lên đến 700 tấn. Vì bị Mỹ ném bom, nên những chuyến xe lửa
chuyên chở hành khách này chỉ kéo dài được đến năm 1972 sau đó hoàn toàn chấm
dứt. Khoảng 20 năm về trước, hai trong ba đầu máy kéo loại chạy trên đường răng
cưa này được bán ra ngoại quốc, người ta thấy được trưng bày tại bảo tàng viện ở
Hòa Lan”.
Trên thực tế, những đầu máy xe lửa này được sửa chữa, tân
trang và mới đây đã được xử dụng, hoạt động trên dường xe lửa răng cưa Furko của
Thụy Sĩ.
(nguồn: Vienam Economic News Online) - Ghi chú: Web-page này đã
bị xóa bỏ và tất cả dữ kiện viết trong bài đều hoàn toàn sai sự thật.
Sau khi Việt Cộng chiếm được miền Nam năm 1975, một điều đáng chú ý là,
chính quyền Hà Nội khi phát triển đường xe lửa Thống Nhất Saigon-Hanoi, vì thiếu
hụt đường rầy, họ đã ngu xuẩn quyết định tháo gỡ đường rầy đoạn đường Song Pha-
Đà Lạt, tưởng rằng có thể giải quyết được việc thiếu hụt đường rầy để hoàn thành
đường xe lửa Thống Nhất. Đây không phải chỉ là một sai lầm lớn mà là một sự ngu
si đần độn của Cộng Sản Việt Nam. Bởi vì, đường rầy xe lửa của đoạn đường Sông
Pha Đà Lạt là loại đường rầy được đặt chế tạo riêng cho đường xe lửa răng cưa
với một kỹ thuật sáng chế đặc biệt dùng cho địa thế dốc, có thể chịu được lực
ép, sức kéo lớn khủng khiếp khi leo dốc trong một khoảng thời gian dài và trục
của đường rầy phải chế tạo toàn bằng loại thép tốt, rất cứng. Ngay cả đến những
con ốc và “bu-loong” cũng đặc biệt, khác với loại đường xe lửa thường. Dĩ nhiên
những đường rầy này không ăn khớp với loại đường rầy cho xe lửa chạy ở nơi bằng
phẳng. Quá là ngu đần! Cuối cùng những đoạn đường sắt này thành sắt phế thải,
quan chức Việt Cộng cưa vụn ra bán rẻ lấy tiền. Đúng là một thảm kịch của lịch
sử hỏa xa Đông Dương! Nếu đường xe lửa này không bị tháo gỡ, thì ngày nay đã có
thể dễ dàng sửa chữa, tân trang để có những chuyến xe lửa du lịch thú vị từ vùng
duyên hải Nha Trang, Ninh Chu, Mũi Né lên Đà Lạt . . . . .
Đường Xe lửa Sông Pha – Đà Lạt cũng tạo thêm nét đẹp cho phong cảnh vùng
Đông Nam Á Châu, đặc biệt với loại đầu máy xe lửa cổ điển chạy bằng hơi nước,
kéo những toa tàu dài chở hành khách, ngoằn ngèo như con rắn không lồ, chạy ven
theo vách núi, lượn theo những sườn núi toàn là thông mọc thẳng đứng. Khi đoàn
tàu leo lên đèo Ngoạn Mục (Bellevue pass), hành khách sẽ có cảm giác kỳ diệu với
cảnh trí một bên là triền núi xanh, một bên là khoảng không gian mênh mông, bất
tận, trải dài đến chân trời mờ mờ phía xa là bờ biển Thái Bình Dương. Phong cảnh
thay đổi ngoạn mục theo từng địa thế cho đến khi con tầu lên đến đỉnh, vùng cao
nguyên Lâm Viên mù sương, mát dịu và bắt đầu thấy thoang thoảng mùi thơm của
rừng thông, của nhựa thông hòa lẫn với mùi gỗ cháy mang theo từ những cột khói
tầu phụt ra đen ngòm. Một cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời khó quên.
Ngày nay, không còn cách nào để tái tạo lại đường xe lửa răng cưa Sông
Pha–Đà Lạt này nữa! Nhất là với sự suy sụp của chế độ cộng sản. Một khi đã phá
hủy thì chẳng còn hy vọng gì tạo dựng lại được nữa! Người Pháp đã tốn 30 năm để
kiến tạo 84 cây số đường xe lửa Tháp Chàm–Đà Lạt, nhưng Việt Cộng trong thời
bình sau năm 1975, chỉ tốn vài năm để “dọn sạch” dấu vết của con đường xe lửa
tuyệt đẹp này, ngay cả “dọn sạch” cây cầu sắt lịch sử ở Đơn Dương (Dran) năm
2004 để lấy sắt vụn !!
Mời các bạn xem nhưng hình ảnh dưới đây, bạn sẽ
khiếp đảm về sự phá hoại, tàn phá di tích lịch sử của chế độ Hà Nội trong thời
bình. Sau một thời gian dài bỏ hoang phế, cỏ cây đã phủ kín dấu vết của con
đường xe lửa ngày xưa. Nhưng, trong những ngày gió lộng, trên đỉnh cao nguyên
Lâm Viên, từ trong những cánh rừng thông, hình như người ta còn mơ hồ nghe tiếng
vọng lại lẫn trong tiếng gió hú, hồi còi tầu rúc lên, âm điệu sầu thảm như
thương tiếc cho một thời của quá khứ đã mất đi.
Vũ Lâm


_____________________________
|
|
Đà Lạt
xưa và nay - 11/11/2009 6:43:45 PM |
| |
Ngô Đồng
Lều Cỏ

Bài:
9458 Từ: Cánh Đồng Bắp
|
Trần Ngọc Toàn
Ðà Lạt Ngày Xưa:
"Khi mới lớn lên, tôi nghe ông Chú của tôi kể lại ông và tất cả học
sinh của thành phố Ðà Lạt được chính quyền vận động đi trồng những cây thông
quanh bờ Hồ Lớn, sau này được đặt tên là Hồ Xuân Hương". Lúc bấy giờ người
Pháp đã xây đập chặn nước của dòng suối lớn Ðà Lạt chảy từ hướng Bắc về, qua các
ghềnh thác lớn nhỏ rồi đổ xuống tận sông Ðà Rằng ở vùng Bảo Lộc, Ðịnh quán.
Trong khi đó, ho cũng ngăn đập ở thượng nguồn làm hồ nước Suối Vàng với đập Thủy
Ðiện Ðan Kia bên dãy núi Bà ở phía Bắc thành phố. Trên đường mở vòng quanh thành
phố, họ đã chặn nước tạo nên hồ Than Thở và hồ Saint Benoit, sau này được đổi
tên là Chi Lăng. Xa hơn, về hướng chính Bắc là hồ nước nhân tạo ở ấp Ða Thiện
với dòng nước chảy về Thác Cam Ly. Riêng với Hồ lớn, họ đã phải dùng cốt mìn để
khoét sâu thêm trước khi làm đập ngăn dòng nước trên đoạn đường từ hướng Nhà Thờ
Con Gà qua dốc lên phố chính thương mại được mang tên là Khu Hòa Bình. Chiếc cầu
trên đập nước được gọi là cầu Ông Ðạo. Sau này, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã tức
cảnh qua cầu nên thơ với tà áo trắng học sinh tung bay viết nên bản nhạc "Có một
Dòng Sông". Khi ghé thăm Ðà Lạt, nhạc sĩ Lam Phương cũng viết bản nhạc "Thành
Phố Buồn" góp mặt với một số bài ca của các nhạc sĩ khác như "Chiều Vàng", " Xứ
Hoa Ðào" , "Ðà Lạt sương mờ" v.v...
Dòng suối từ cầu Ông Ðạo chảy xuôi
theo thung lũng bên ấp Ánh Sáng mới được dựng lên sau năm 1955, mở rộng như một
dòng sông nhỏ qua cầu Bá Hộ Chúc bằng gỗ, đến ấp nhỏ với vườn rau cải xanh mướt
quanh năm rồi qua cầu Nhà Ðèn, khu "Abattoire" chuyên mổ lợn giết bò, qua xóm Lò
Gạch rồi đổ về Thác Cam Ly với một ấp người Thượng gốc sắc tộc Kơ Ho với nhà sàn
tập thể ở đầu nguồn. Với trợ cấp của một chủ nông trại người Pháp tên Farraut,
còn chìm trong cảnh núi rừng hoang dã và nguồn nước chảy rất mạnh qua ghềnh đá
nhấp nhô. Từ đây, người ta còn nghe tiếng nai bép xép và tiếng hổ gầm. Từ Thác
đi về hướng Tây chừng hai trăm thước dẫn lên ngọn núi cao với rừng thông dày đặc
xanh thẫm là lăng mộ của ông Nguyễn Hữu Hào, cha ruột của Nam Phương Hoàng Hậu,
Chánh phi của Hoàng Ðế Bảo Ðại, cuối đời nhà Nguyễn. Chính phủ thuộc địa Pháp đã
trao lại thành phố Ðà Lạt do Bác Sĩ người Pháp, tên Yersin khám phá và lập nên
cho Nam Triều nên ông Vua Bảo Ðại đã lấy làm ỏõ Hoàng Triều Cương Thổ ỏõ dành
cho Hoàng thân quốc thích và tất nhiên là người Pháp cai trị.
Ngược lên
hướng Tây Bắc từ Thác nước là Phi trường Cam Ly, với đồi núi trùng điệp vây
quanh, nhưng phi trường rất ít được sử dụng vì thời tiết mây mù và núi cao vây
quanh. Từ đây, đi ngược về thành phố, trên một ngọn núi lớn với rừng thông già
là khu trường nổi tiếng của các Bà Sơ là "Couvent des Oiseaux" với các nữ sinh
xinh đẹp như mộng, trong bộ đồng phục váy đầm xếp nếp màu xanh Ðại dương từ
những gia đình khá giả ở khắp miền Nam gửi đến nội trú. Ở phía Nam là ấp Du Sinh
gồm những người Bắc di cư vào Nam trốn chạy Cộng Sản hồi năm 1954 lập nghiệp
sinh sống tại đây. Qua một núi thấp với những ngôi biệt thự sang trọng nhìn về
hướng thung lũng xóm Lò Gạch sẽ đến khu trường nội trú Tiểu học "Petit Lycée"
với cơ sở khang trang nằm ẩn khuất trong rừng cây thơ mộng. Về hướng Ðông, qua
nhà máy Ðiện thường được dân chúng gọi là Nhà Ðèn, qua Cầu Ðúc rồi leo dốc Duy
Tân gần như thẳng đứng dẫn lên phố Hòa Bình. Nếu tiếp tục đi về hướng Ðông Nam
sẽ qua những ngôi biệt thự lộng lẫy, kiêu kỳ hơn nữa trên con đường mang tên Bác
Sĩ YERSIN với khu Tòa Án, rẽ vào Trung Tâm Thí Nghiệm Chủng Ngừa của Cố Bác Sĩ
Yersin, vào Biệt Ðiện số 1 của Vua Bảo Ðại, gần bên rừng ái ân với cảnh trí thật
thơ mộng và vắng vẻ.
Lúc còn học ở trường Tiểu Học Ðà Lạt, là trường
Tiểu học duy nhất lúc ấy dạy tiếng Việt, vào năm 1951, tôi được đề cử cùng những
học sinh khác vào Dinh Vua Bảo Ðại ở Biệt Ðiện số 1 để nhận quà Tết do chính tay
ông Bảo Ðại trao cho. Dinh cơ nguy nga và tráng lệ như cảnh phim Vua Chúa của
Tây Phương thời đó. Tôi cũng có được món đồ chơi duy nhất từ bé đến lớn là con
gà con bằng nhựavới máy móc làm nó nhẩy từng bước trên hai chân. Ở ngã ba rẽ
vào Biệt Ðiện số 1 là cơ sở hành chánh của chính quyền, sau này có khi được lấy
làm Tiểu Khu cho đến lúc dời lên cơ sở của Ðại Biểu Cao Nguyên Trung Phần do các
ông Tôn Thất Hối và Nguyễn Văn Ðãi đảm trách đến ngày cuối cùng.
Ngay
sau lưng đường Yersin là thung lũng sâu hẹp của ấp Xuân An, Dốc Nhà Bò, Suối Cát
dẫn về Suối Tía xuống tận Núi Voi dưới chân đào Prenn. Một bên là trường Dòng
Domaine de Marie tức là địa phận Ðức Bà, một bên là sân vận động nhỏ rồi đến
ngôi Nhà thờ Con Gà với tháp chuông cao có hình con gà trên cùng. Kế đến là
khách sạn Du Parc với Tháp cao làm Ðài Phát Thanh, Ngân Khố, Bưu Ðiện và khách
sạn Palace nằm trên đồi nhìn xuống hồ nước Xuân Hương với đường bậc cấp thoai
thoải, rộng lớn đưa xuống đường vòng quanh Hồ với Nhà Thủy Tạ sơn trắng đứng
trên doi đất chồm ra mặt nước. Một bên đường là Câu Lạc Bộ Thể Thao với sân quần
vợt.Ở lưng đồi, có một khu biệt thự trước năm 1959 dành làm trường Quốc Gia Hành
Chánh với khóa học đầu tiên.
Tòa Ðại biểu Chính Phủ Cao Nguyên Trung
Phần là một dinh thự bề thế nằm ngay trên đỉnh đồi nhìn về phía Hồ nước với
đường trải nhựa vòng cung và hàng rào sơn trắng uy nghi. Về hướng Ðông là ngã tư
đầu dốc Prenn đổ dốc vào thành phố. Bên kia là ngọn núi dành cho Biệt Ðiện số 2
của Vua Bảo Ðại. Khoảng năm 1959, mới có cây xăng Kim Cúc được xây dựng ngay góc
ngã tư này. Từ đây, đổ xuống dốc là hai dãy biệt thự đối mặt kéo dài xuống tận
cuối dốc với khách sạn và nhà hàng PHÁP tên ỏõ Au sans soucis ỏõ. Khi ngược lên
là mấy ngôi biệt thự nằm lẻ trong rừng thuộc tài sản của một người Pháp ở Ðà Lạt
lâu đời tên là Farraut. Ngay tại đây, từ trước năm 1975, chính quyền đã phá núi
làm bến xe cho các loại xe đò, xe chở hàng để giảm bớt lưu lượng trong thành
phố. Quen thuộc nhất là Nghiệp đoàn xe đò Minh Trung với loại xe hiệu Peugeot
của Pháp được biến cải để chở cả 9, 10 người khách.
Vào năm 52, gia đình
tôi tạm trú ở căn biệt thự số 17 đầu dốc Preen, bên kia đường là nhà của Chỉ huy
trưởng Trường Võ Bị Liên Quân lúc ấy là Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu và tư dinh của
Chỉ huy trưởng Ngự Lâm Quân là Thiếu Tá Trần Bá. Lúc ấy, đám con của láng giềng
tôi đều có xe đưa rước đi học, chỉ có anh em tôi phải lội bộ điến trường. Hơn
nữa, họ đâu có thèm học trường Việt. Người giàu sang phải học "trường Pháp".
Ðường đèo dốc Preen dài ngoằn ngoèo cả 10 cây số. Ðường hẹp với một bên là
bờ núi đá và một bên là dốc sâu thăm thảm. Lúc còn đi Hướng Ðạo ở Ðà Lạt, bọn
trẻ nhỏ chúng tôi từng nhiều lần đổ dốc bằng xe đạp khi đi cắm trại. Ở khoảng
cây số thứ 4 là thác nước Ða Tăng La, lúc xưa gọi theo tiếng Kơ Ho là Dantania,
với dốc đá cheo leo khuất trong rừng sâu dày đặc. Vừa hết đèo dốc là thác nước
Preen ngay bên trái với màn nước chảy chồm qua mỏm đá trong cảnh rừng núi đầy
thơ mộng.
Thoạt tiên, khi người Pháp mở đường lên Ðà Lạt, trên Quốc Lộ
20 sau này, từ Bảo Lộc, Di Linh đi lên họ đã mở một đường đèo ngắn hơn nhưng
nguy hiểm hơn song song với đèo hiện hữu xuyên lên khu trại Hầm. Ngay ngọn đèo
đã bỏ hoang ấy, với đường rải đá loang lỗ, có một ngôi Chùa Sư Nữ với những cây
mít lâu năm cằn cỗi và vườn mận trái ngọt. Từ ngã bao đầu dốc Preen mới, qua
Biệt Ðiện sẽ đến khúc Ðại lộ Trần Hưng Ðạo rộng gấp ba bốn lần những con đường
trên Ðà Lạt, với những ngôi biệt thự hai bên đường sang trọng dẫn đến khu Villa
Alliance của các nhà Truyền Ðạo Tin Lành ở ngay đầu dốc Preen cũ, liền với ấp
trại Hầm nổi tiếng với những khu vườn Mận ngọt lịm chớm vàng ươm hoặc màu tím
sẫm đen. Từ đây dẫn xuống Biệt Ðiện số 3 nằm khuất trong rừng núi sâu là nơi Vua
Bảo Ðại làm chỗ đi săn bắn. Ðầu dốc đường vào trại Hầm, có một biệt thự làm
Nitgh Club, mãi đến tập niên 60 mới dẹp bỏ. Từ đây đi về hướng Ðông là đường đi
Phan Rang với đèo qua Trại Mát, Trạm Hành, Ðơn Dương, đèo Ngoạn Mục, Sông Pha.
Bên trái, trước khi đến khúc quan nhìn xuống hồ Than thở là một biệt thự lúc xưa
làm chỗ "Mãi Dâm" công khai cho lính Viễn chinh Pháp ( Borden Militaire ). Bên
phải là hai trụ sơ Ưcủa Hướng Ðạo Pháp để lại. Trại Mát là một làng nhỏ bên
đường với ngôi nhà thờ Cao Ðài khá lớn và vườn cây cà phê, rau cải. Bên trong xa
có ghền và thác nước nhỏ rất ngoạn mục nhưng chưa được khai thác thương mại và
xóm dân gần đa số di cư từ Quảng Nam, Quảng Ngãi vào. Từ Trạm Hành phải đổ con
dốc 4, 5 cây số mới đến Ðơn Dương với Hồ nước Ðập Ða Nhim do người Nhật xây dựng
thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm.
Song song với đường đi Trại Mát, nối dài
đường vòng hồ Xuân Hương là con đường nằm ngang dưới chân biệt thự và phòng mạch
của Bác sĩ Sohier, đã sống gần trọn đời tại nơi này, đưa vào Nha Ðịa Dư Quốc Gia
và Trường Trung Học "Grand Lycée Yersin". Trường sở bề thế chiếm hẳn một chỏm
núi rộng cả ngàn mét vuông với các dãy nhà hai tầng làm phòng ốc cho lớp học,
nhà nội trú, phòng thể dục với sân rộng lớn hơn một sân bóng đá và một tháp
chuông vươn lên khỏi chòm rừng thông, ở hướng Ðông, nhìn xuống hồ nước. Ðây là
một cơ sở giáo dục lớn do Chính phủ Bảo hộ Thuộc địa Pháp xây dựng được đặt
thống thuộc trực tiếp vớiBộ Giáo Dục của nước Pháp, với chương trình học, thi cử
được sự công nhận của Mẫu Quốc với Chương trình học, Giáo sư và sách vở đến từ
Pháp. Con em của dân Pháp thuộc địa và công chức Pháp đã gửi lên đây ở nội trú
theo học cùng với các gia đình người Việt giàu có hoặc làm việc cho Pháp. Ngoài
ra, còn có một số ít người Thượng của các sắc tộc trên Cao Nguyên được tuyển
chọn cho vào học miễn phí trong kế hoạch lâu dài cho cuộc thống trị. Một số
người Thượng gốc Kơ Ho, Ra Ðê còn được đưa qua Pháp du học để trở về phục vụ cho
chính phủ thuộc địa Pháp. Ðây cũng là mầm mống đã nảy sinh ra Mặt Trận FULRO ở
Cao Nguyên của người Thượng với sự tiếp tay của Lực Lượng Ðặc Biệt Mỹ sau này.
Nơi này cũng thu hút nhiều nhà trí thức của Pháp muốn thay đổi không khí tìm đến
dưới hình thức dạy học như Thi sĩ Jean O'Neil còn lăng mộ nằm sau lưng Nhà Thờ
của địa phận Ðức Bà "Domaine de Marie" ở ấp số 4, Ða Nghĩa, trên một thế đất
giữa thung lũng nhỏ với dòng nước bao quanh rất nên thơ.
Từ ngã ba vào
Nha Ðịa Dư, đường vòng qua Ga Xe Lửa tọc lạc trên một mảnh đất khá rộng san bằng
một chỏm núi với ấp Hồng Lạc nằm dọc theo khe nước. Ấp này mới thành hình từ năm
1951 với khu trại gia binh dành cho Ngự Lâm Quân đồn trú bảo vệ Hoàng Triều
Cường Thổ. Ðường xe lửa chạy song song với đường bộ đi về Trại Mát đến Ðơn
Dương. Ở những chặng đường đèo, xe lửa được giữ lại nbằng móc sắt ỏ giữa đường
với thêm một đầu máy đẩy lúc lên dốc và hãm lại lúc xuống dốc. Sau này đường xe
lửa ngưng chạy vì an ninh đã trở thành trụ sở của Hàng Không Air Việt Nam để lập
thủ tục đưa hành klhách bằng xe ca về tận Phi trường Liên Khương ( cách 20 cây
số về Nam ). Từ Ga xe lửa qua ấp Cô Giang, Cô Bắc là nơi có một biệt thự nghỉ
mát cho Không Quân trước năm 75. Với nhiều biệt thự theo kiểu của Anh, Ý đến tận
ngã rẽ vaò trường Võ Bị Ðà Lạt, trước khi vào khu phố Chi Lăng và hồ Than Thở ở
phía Ðông, Trường Võ Bị được chính phủ Bảo Hộ Pháp thành lập để đào tạo cán bộ
cho Quân đội thuộc địa. Bên cạnh là bệnh viện quân đội ỏõ Catroux ỏõ làm nơi
chữa trị và dưỡng thương cho Sĩ quan Pháp từ các mặt trận chuyển về.
Bệnh viện với nhiều căn nhà trệt và một nhà lầu hai tầng bao quanh một
sân rộng như sân bóng tròn, nằm trên một chỏm núi san bằng sâu vào bên trong,
nối liền với cơ sở của trường Võ bị Liên Quân cũ. Bên ngoài là cơ ngơi của các Y
sĩ, Sĩ quan phục vụ với gia đình. Vào năm 1960, trường Võ Bị Liên Quân được cải
tổ thành trường Võ Bị Quốc Gia dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, với cơ sở bề thế,
khang trang mới được xây dựng trên ngọn đồi 1515 san bằng bên cạnh trang trại
của Farraut và gần hồ Than Thở. Với Chính phủ Quốc Gia và chương trình Ðại Học 4
năm lồng trong việc huấn luyện quân sự lấy theo khuôn mẫu của trường Võ Bị West
Point bên Mỹ, đã thu hút nhiều thế hệ thanh niên ở miền Nam từ năm 60 đến 75.
Với 4 khóa học cùng một lúc trong trường, vào ngày nghỉ được ra phố cuối
tuần, các sing viên Sĩ Quan đã tô điểm thêm cho vẻ sang trọng của Thành phố với
các bộ quân phục mùa Hè và mùa Ðông thẳng nếp chỉnh tề, đẹp mắt. Bên trái của
Trường Võ Bị nằm trên một ngọn Ðồi Cù, bên hồ là trung Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc
được xây dựng vào năm 1960, đã cung cấp một số giáo sư du học từ Mỹ về cho
trường Võ Bị và Trường Ðại Học Chính trị Kinh Doanh, Văn Khoa và Sư Phạm ở Ðà
Lạt.
Cơ sở của Khu Ðại Học Ðà Lạt ở ấp Ða Thiện vốn là trường ốc nội trú
của Thiếu Sinh Quân Pháp sau năm 1955 được chuyển về Vũng Tàu. Cũng như cơ sở
của Trường Trung Học Trần Hưng Ðạo bên hồ nước nhân tạo bên ấp Ða Thiện cũng từ
cơ ngơi của Thiếu Sinh Quân giao lại từ năm 1952 với tên trường Bảo Long là
Hoàng Tử của Vua Bảo Ðại. Nằm trên sân Cù là nền đất đỏ san bằng ngọn núi thấp
là trường Nữ trung Học Bùi Thị Xuân nguyên thủy là trường Trung Học Phương Mai
tên của Công chúa con Vua Bảo Ðại, rồi được đổi thành Quang Trung khi Thủ Tướng
Ngô Ðình Diệm lên chấp chánh. Sau cùng, tất cả nam sinh được dồn về Trung học
Trần Hưng Ðạo và cơ sở này dành cho Nữ sinh với tên trường là Bùi Thị Xuân với
đồng phục áo dài màu xanh, quần trắng. Ðối diện với trường Bùi Thị Xuân là
trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị được lập năm 1961 đã cung ứng Sĩ quan CTCT
cho các đơn vị quân đội. Ðây nguyên là cơ sở của trường Huấn luyện Hiến Binh của
Quân Ðội Liên Hiệp Pháp, về sau giải thể nhập chung vào ngành Quân cảnh của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa. Dưới thung lũng hẹp của ấp Ða Thiện gồm đa số người
Việt di cư từ Nghệ An, Hà Tĩnh vào, chuyên trồng trái dâu tây. Kế đến là ngọn
núi nghĩa trang thường được gọi là Mả Thánh được lập từ ngày có thành phố Ðà Lạt
với mộ bia chồng chất từ dưới chân núi lên đến đỉnh phía Ðông là khu mộ Tử Sĩ
của những thanh niên yêu nước chống Pháp đã hi sinh. Dưới chân núi phía Tây,
theo đường lên núi Bà là làng Ða Nghĩa với ấp số 4, ấp số 6 gọi theo mốc cây số
đường, lên đến Ðăng Kia, Suối Vàng với ngôi chùa Linh Sơn (1) lâu đời. Ở Ðan
Kia, có một cao ốc Tu viện Thiên Chúa đồ sộ nổi lên giữa rừng núi của Dòng Ða
Minh. Cao sừng sững về phía Bắc là dãy núi Bà với hai chỏm núi gần như chìm
trong sương mù quanh năm. Hàng năm, các khóa Võ Bị đã lần lượt vượt đồi núi
chinh phục đỉnh Lâm Viên như một truyền thống trước khi chính thức trở thành
Sinh viên Sĩ quan.
Từ ấp số 4 về khu phố Hòa Bình có hai đường gần như
song song. Ðường trên các ngọnnúi nối liền chạy ngang trước mặt khu tu viện
"Domaine de Marie" với ngôi nhà thờ Ðức Bà uy nghi trên đỉnh núi với bậc cấp
rộng lớn, xoai xoải đưa lên cửa chính với các cơ sở nhà tu khang trang vây quanh
dành cho các Nữ tu Dòng Thánh Mẫu Marie với cơ sở trường tiểu học đạo Thiên
Chúa. Nằm khiêm nhừng bên dưới, bên đường Hai Bà trưng là trường Tiểu học Ða
Nghĩa, bắt đầu bằng một ngôi nhà dành cho ba lớp sơ cấp từ năm 1945 đến 1959 mới
phát triển thành trường Tiểu Học, Tiếp đến, trên đường Hai Bà Trưng bên dòng
suối nhỏ chảy về Cam Ly là Cư xá công chức của Thị xã như Bưu Ðiện, Công
chánh.v.v. . . Với các vườn rau cải dọc theo dòng nước tiếp liền qua đường Phan
Ðình Phùng khởi đầu một khu phố buốn bán sầm uất. Gần nhà thờ Ðức Bà tọa lạc khu
Nhà Thương dành cho quần chúng với sự chăm sóc nhân từ của các Sơ từ Tu Viện
Domaine de Marie đến làm việc từ thiện bác ái. Nhà Thương Ðà Lạt dành cho
quần chúng nghèo và người Thượng từ các Buôn về. Dãy nhà lầu hai tầng rộng rãi
cách khu nhà Thương chừng vài trăm mét về phía Nam là Bệnh viện Ðà Lạt với các
Bác Sĩ, Y Tá người Pháp dành cho giới giàu sang. Về phía Tây, gần đấy là cơ sở
nhà Ðoan đổ dốc nhỏ qua các biệt thự với vườn cây Mận dày đặc đưa lên ngọn núi
với các cơ sở của Cảnh Sát và Công An đổ về miệt thác Cam Ly. Dưới chân núi Nhà
Ðoan là xóm Lò Gạch, sau này đổi tên là đường Hoàng Diệu tiếp giáp đến khu nhà
sàn định cư của một số người Kơ Ho làm việc cho Trang trị nhà Farraut. Các Bà Sơ
dòng Tu cũng coÀ một thời mở một tiệm ăn ở đầu dốc gần nhà Ðoan để kinh tài với
phong cách rất đặc biệt thu hút nhiều khách hàng từ xa đến. Từ đường Phan
Ðình Phùng, ở khoảng giữa, có ngả rẽ lên dốc với chùa Linh Sơn (2) trên lưng núi
với cơ ngơi khá bề thế và trang trí đẹp mắt, hòa nhã nối tiếp qua con đường Võ
Tánh đưa xuống hồ Ðội Có, là hồ nhỏ chứa nước dùng cho cả thành phố với nhà máy
lọc nước. Từ đây đi ngược lên núi là đường độc đạo đưa lên Dinh Thị Trưởng,
đường Hàm nghi dẫn vào phố chợ, trước được người Pháp bắt chước Tàu đặt tên là
đường An Nam với ngôi nhà thờ Tin Lành hỏ gọn ở lưng chừng núi và rạp chiếu bóng
nhỏ xíu nằm chênh vênh bên dốc đứng nhìn xuống đường Phan Ðình Phùng. Từ đây đi
vào vào Bến xe cũ ngay dưới chân Dinh Thị Trưởng và Khu phố Chợ với Nhà Lồng Chợ
ở giữa và tiêm buôn bán, nhà hàng bao quanh gồm một số đáng kể của người Tàu đã
định cư lâu đời theo dân Pháp thuộc địa, nổi tiếng với những nhà hàng ăn sang
trọng như Au Chic Sanghai, tiệm bánh mì Vĩnh Châu, tiệm thuốc Bắc, Tạp hóa xen
lẫn một ít cơ sở buôn bán của người Việt vốn dòng dõi Hoàng tộc nhà Nguyễn. Các
Ông thì đều là Tôn Thất và các Bà, các Cô đều là Tôn Nữ. Bà chủ tiệm vàng lâu
đời Bùi Duy Chước vốn là Công Tằng Tôn Nữ. Ðấy là thời kỳ Hoàng Triều Cương Thổ.
Ðến năm 54, những tiệm phở Bắc nổi lên với Phở Bằng ở đường Hàm Nghi, Phở Tín
bên hông chợ và Càphê Tùng với cà phê Ban Mê Thuột và nhạc trào lưu mới quyện
trong khói thuốc lá mịt mù. Vài năm sau có gia đình lưu lạc từ Nam Vang lên đây
mở tiệm hủ tiếu Nam Vang lừng danh. Gần rạp chiếu bóng Ngọc Hiệp, đầu hẻm từ
Phan đình Phùng đi qua đường Hai Bà Trưng là quán Mì Quảng với hương vị đặc biệt
nổi danh lại do một ông người Bắc vào Nam từ những năm 1940 đứng nấu. Ngay góc
đường đầu dốc Duy Tân có tiệm làm bánh mì Vĩnh Chân nóng giòn từ sáng sớm cho
đến khuya. Sau này, vào khoảng năm 59, có người Do Thái "nhận nơi này làm quê
hương" mở lò bánh mì ngon hơn hết. Về khuya, khi các tiệm tạp hóa đóng cửa,
quanh khu chợ Hòa Bình và đường nhỏ trước mặt khách sạn Thủy Tiên đã mở ra các
gánh bắp nướng, cháo gà, bún riêu, bún bò. . . cho khách đi chơi về đêm. Con
đường nhỏ này chạy ngan cổng trường Tiểu học Ðà Lạt dẫn vòng theo triền núi qua
Thư viện cũ, sân Quần Vợt, Cư Xá Sinh Viên Ðại Học Nữ và các biệt thự lên đến
đỉnh núi với giao thông hào và hố chiến đấu còn sót lại từ thời quân Nhật chiếm
đóng. Với một trang trại nhỏ của Farraut do mấy người Thượng ở trông coi. Ðầu
dốc khu Hòa Bình, con dốc ngắn đổ xuống cầu ông Ðạo với hai hàng cây Mai Ðà Lạt
nở hoa màu hồng tươi thắm rộ hai bên lề đường. Con đường phía trên qua dãy ỏõ
Kiosque ỏõ nhỏ, đến rạp Ngọc Lan, với xe Phở Bắc nổi tiếng món phụ hành ngâm
giấm và cải xà lách răng cưa, vòng ấp Ánh Sáng xuống cầu Bá Hộ Chúc. Năm 1958,
Ấp này được lập cho dân nghèo với những căn nhà vách ván mái tôn. Ðầu ấp là Bến
xe đò cũ sau ngày ngôi chợ mới được xây cất xong. Chợ mới này là công trình của
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, khởi công vào năm 1958 với khúc Ðại Lộ ngắn nguyên là
hẻm núi giữa khu phố Hòa Bình và chân núi xoải dài từ Dinh Thị Trưởng ra đến hồ
Xuân Hương. Trên núi là Nhà Giam Chính của Ðà Lạt, với một số biệt thự nhìn
xuống hồ như biệt thự của Bảy Viễn, Luật sư Hoàng Cơ Ðịnh. . . Kiến trúc ngôi
chợ hai tầng dựa lưng vào vách núi với bậc thang rộng rất ngoạn mục dẫn lên Khu
Hòa Bình với Phòng Trà ỏõ La Tulipe Rouge ỏõ vang bóng một thời với các Ca sĩ Mỹ
Thể và Khánh Ly thuở còn chưa nổi tiếng, cùng một vài khách sạn và nhà Kiosque
làm tiệm ăn, bán hàng Len,vật Kỷ niệm. Ðường vòng hồ Xuân Hương được tô điểm
thêm, năm 1959 với vườn Bích Câu trồng đủ các loại hoa đẹp, rực rỡ quanh năm thu
hút khách du lịch từ phương xa tới với bầy ngựa núi làm cảnh. Từ hồ Xuân
Hương đi lên trường Nữ Trung Học Bùi Thị Xuân là đường Võ Tánh với xóm nhà nhỏ
và vườn cây đào, cây mận. Nơi này là chỗ sinh trưởng của Nhạc sĩ Lê Uyên với
những khúc tình ca khác lạ với dòng nhạc đương thời làm rung động nhiều con tim
của tuổi trẻ đang bước vào cuộc chiến ngày càng khốc liệt ở Một thành phần khác
nữa là người Pháp thuộc địa và những kẻ làm việc cho họ hầu như đếu mang quốc
tịch Pháp. Anh dấ gia nhập nhóm Tao Ðản. Ðải Phãt Thanh Saigon với giọng ngâm
thơ truyền cảm và nức nở cùng với giọng ngâm Nữ Hồ Ðiệp. Về người Ðà Lạt,
ngoài người sắc tộc Ko Ho nguyên thủy, dưới triều đại Hoàng Triều Cương Thổ đời
Vua Bảo Ðại, dân cư ai cũng có dính dáng đến Hoàng Tộc nhà Nguyễn di dân vào từ
Huế.
Một thành phần khác nữa là người Pháp thuộc địa và những kẻ làm
việc cho họ hầu như đếu mang quốc tịch Pháp. Trước năm 60, thành phố có khá
nhiều trẻ lai Pháp ở các trường dòng Ðạo Thiên Chúa như Adran, Domaine de Marie.
Sau năm 60, dưới thời hòa bình của Tổng Thống Diệm, việc trồng trọt rau cải được
người Pháp mang giống sang từ lâu như bắp cải,sà lách, cà rốt .v.v . .. được
phát triển mạnh với từng đoàn xe vận tải chở về bán tại Saigon, Nha Trang, một
số khá lớn người từ vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi nghèo khó đã đến định cư và tạo
thành một khối nhân lực đáng kể. Với sức chịu đựng lâu bền, cần cù, họ đã chăm
chỉ khai thác tối đa những thung lũng, hẻm núi để tạo nên thành những thửa vườn
rau tươi tốt quanh thành phố từ Trại Mát, ấp Thái Phiên, cây số 6, Lò Gạch, Cam
Ly Thượng đến Suối Cát, Suối Tía. Trong cuộc chiến tranh khốc liệt ở miền
Nam từ năm 1965 đến 1975, lớp thanh niên sinh trưởng ở Ðà Lạt đã vào quân đội đi
chiến đấu và hi sinh khá nhiều ở các mặt trận. Phần lớn, vốn thích mặc đẹp và
oai hùng, họ đã gia nhập vào Không Quân và Hải Quân của Việt Nam Cộng Hòa.
Nhắc đến Ðà Lạt, cũng không thể thiếu những địa danh ở ngoại ô. Dưới
chân đèo Ðơng Dương là đập nước Ða Nhim. Bên dưới dốc Preen, ở cây số 17 là
đường vào La Ba, Ðức Trọng với thảo nguyên rộng mênh mông trên cao và hồ nước
trong xanh nổi tiếng với một loại khoai lang mật ngọt như mật đường được xẻ phơi
khô và chuối trái nhỏ vỏ mỏng, quả thơm trái lớn. Ngày xưa, tôi từng có mộng
về hưu về đây mở trang trại trồng trọt với thú săn bắn về đêm. Vài cây số về
phía Nam là Phi trường Liên Khàng về sau được đổi gọi là Liên Khương với thác
nước rộng lớn đổ xuống khu làng Tùng Nghĩa của các sắc dân miền Bắc di cư vào
năm 1954 lập nghiệp sinh sống. Thác nước hùng vĩ và ngoạn mục hơn nằm xa trên
Quốc Lộ 20 về phía Nam độ 30 cây số là thác Gougah và Pongour nằm sâu vào bên
trong phía Tây Quốc Lộ. Về phía Ðông Bắc của thành phố, bên ấp Thái Phiên là con
đường đất bỏ hoang do người Pháp thiết lập để nối từ Ðà Lạt về Nha Trang. Về
sau, có một Buôn người Thượng định cư ở đây gọi là Ða Rơ Hoa.
Một số
không ít đã gia nhập vào trường Võ Bị Quốc Gia tại Ðà Lạt và đã có hai Thủ Khoa.
Chiến tranh chỉ nhớm chân ngoài rìa thành phố và một vài biểu tượng từ các Phi
Hành đoàn Trực thăng của Không Quân ghé lại với chiến phục và súng đạn. Ngoại
trừ, một vài lần vào năm Mậu Thân 68, một lực lượng yếu kém của Việt Cộng xâm
nhập từ Ðan Kia, Suối Vàng về đến rạp Chiếu bóng trên khu phố Hòa Bình đã bị
quân đội ở địa phương đánh đuổi ngay ngày hôm sau. Còn lại là những vụ pháo kích
nhỏ, lẻ tẻ vào một vài nơi đồn trú của Quân Ðội. Dù vậy, chiến tranh cũng không
để lại dấu vết nào đáng kể trên thành phố thơ mộng, êm đềm này. Có nhiều
nghi vấn về ngôi chùa Linh Sơn (3) đồ xộ, tráng lệ đã được xây cất lên sau 1975
ở vùng Suối Tía, từ đầu dốc Preen đi vào là nơi vốn là địa bàn hoạt động của Du
kích Việt Cộng ngày xưa và trong lúc dân chúng nghèo đói cực khổ của một quốc
gia được Liên Hiệp Quốc xếp hạng gần chót của các nước nghèo trên thế giới.
ÐÀ LẠT NGÀY NAY:
Sau năm 1945, trong cao điểm của thời kỳ
chống Pháp với phong trào Việt Minh do Cộng Sản chủ mưu, một số thanh niên yêu
nước đã hăng hái theo vào chiến khu rồi sau đó, ở thế kẹt, phải ra tận ngoài Bắc
trong chiến dịch Tập Kết vào năm 1954. Một số lớn họ đã trở về Ðà Lạt sau năm
1975. Những người này với tinh thần ôn hòa đã cố giữ quê hương của họ tráng giai
đoạn tàn sát của chủ nghĩa Cộng Sản cho đến thời kỳ được gọi là "Ðổi Mới".
Nhưng từ sau năm 1975 cho đến 79, 80, một số rất lớn những người có máu mặt,
tiền của, trí thức đã chạy trốn khỏi Ðà Lạt. Ðặc biệt là những người có liên hệ
đến chính phủ Pháp vốn có quan hệ ngoại giao tốt đẹp với Hànội đã lần lượt được
ỏõ Hồi Cư ỏõ về Pháp, để lại đằng sau những biệt thự rộng lớn, nguy nga, tráng
lệ không có người ở, chăm sóc và cửa tiệm đóng cửa. Năm 1984, khi được thả
về từ Trại Tù Cải Tạo, tôi đã trở về thăm gia đình và lòng tràn đầy chua xót khi
thấy ỏõ quê hương của mình đã mất ỏõ. Bây giờ chỉ còn người dân Ðà Lạt lam lũ,
tất bật. Những người ở lại là những người sống bám theo những mảnh vườn rau cải.
Ngoài ra,hơn 20 ngàn người từ miền Bắc được chính quyền mới đưa vào Nam với
chính sách di dân khống chế Cao Nguyên Miền Trung đã phá rừng ở quanh khu lân
cận thành phố khiến cho các dòng nước bị cạn, và thời tiết cũng không còn mát mẻ
như xưa. Con đường Phan Ðình Phùng buôn bán thuỏ xưa, nay đã trở nên đông đúc,
chật hẹp và ồn ào náo nhiệt như một khu phố của thành phố SàiGòn ngày trước. Với
mức dân số tăng vọt sau chiến tranh, thành phố đã phát triển vô tổ chức, không
kế hoạch đưa đến tình trạng bát nháo, từ khu vực Phan Chu Trinh, Nhà Ðèn đến Chi
Lăng ăn vào tận Hồ Than Thở. Cơ sở của Trường Võ Bị nay tiêu điều, xơ xác như bị
bỏ hoang. Các dòng nước bị ngăn chặn và lám cho các hồ Than Thở, Xuân Hương muốn
cạn khô khiến vẻ đẹp thiên nhiên không còn nữa. Các loại xe máy nổ cũng tăng vọt
làm cho không khí yên tĩnh của Ðà Lạt ngày xưa biến mất. Ðến thời kỳ đổi
mới,người Nhật, người Tầu Ðài Loan, Hồng Kông đã đổ tiền vào khai thác như tu
sửa khách sạn La Palace, làm sân Golf, xây khách sạn nghỉ mát trên vùng đồi núi
bên hồ nước Suối Vàng. Ðà Lạt bỗng chốc biến dạng như một thiếu phụ đã luống
tuổi vội vàng tranh điểm, thay đổi xiêm y. Một giai cấp mới được thành hình vừa
ỏõ Rởm ỏõ lại vừa "lai căng". Tây không ra Tây, Tầu không ra Tầu. Ðà Lạt diễm
kiều của ngày xưa nay đã mất. Thay vào đấy là cô gái Xã Hội Chủ Nghĩa đi giầy
cao gót, đồng phục công nhân và mái tóc cắt ngắn đã được nhuộm màu vàng, đỏ với
đôi mắt láo liên và đôi môi cong cớn. Ngọn núi nghĩa trang của Ðằ Lạt có từ
những năm 30 đến nay đang bị đào xới và san bằng cho chương trình kế hoạch của
người tư bản Nhật. Ở đấy, có cả một nhóm mộ ngày xưa được gọi là Mộ Tử Sĩ, ngày
nay không còn ai công nhận để bị dẹp bỏ cho con đường đổi mới. Những người
cầm quyền như lưỡng lự đứng giữa ngã tư đường không biết nên đi theo hướng nào.
Một thành phố Du lịch và Nghỉ mát có mâu thuẫn với Xã hội Chủ nghĩa không? Bây
giờ dân số Ðà Lạt đã gấp ba lần trước năm 1975, chưa rõ phải sống trên nền móng
kinh tế nào? Cuộc khai thác du lịch như nửa mùa, quê kệch ở hồ Xuân Hương,
Thác Cam Ly, Thác Da Tan La, Preen, Suối Tía, Rừng Ái Ân, Biệt Ðiện vua Bảo Ðại
chỉ làm cho bộ mặt Ðà Lạt càng thêm diêm dúa như "gái đĩ về già". Ðà Lạt
ngày nay càng xói mòn vì mưa lở và khí hậu ngày cáng nóng bức vì trơ trụi mất
rừng cây thông bạt ngàn bao quanh.
TRẦN NGỌC TOÀN
| | |
|